
Tò he hoa
Hoa tò he... ..

Tò he hình người
Tò he hình ng..

Tò he con giáp
Tò he 12 con giáp đủ loại sắc màu ..

Tò he hoa quả
Tò he mâm ngũ quả sắc ..
- DỊCH VỤ (1)
- GIOI THIÊU (2)
- LIÊN HỆ (1)
- NGUYÊN LIỆU (1)
- QUY TRÌNH (2)
- SẢN PHẨM (2)
- TIN TỨC (6)
Tò he Xuân La - Sức sống một làng nghề
Tò he Xuân La - Sức sống một làng nghề
Không chỉ lan tỏa khắp mọi miền đất nước, sắc màu tò he còn từng bước mang văn hóa dân tộc “giao lưu” cùng bạn bè thế giới.“Tò he cụ bán mấy đồng/Con mua một cái cho chồng con chơi…”. Trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, tò he – một thứ đồ chơi dân dã, tưởng chừng đã bị mai một. Nhưng nay, trên quê hương Xuân La, tò he lại tiếp tục hồi sinh.
![]() |
Cụ Đặng Văn Tố |
Tò he có lẽ là thứ đồ chơi truyền thống duy nhất ở Việt Nam mang nhiều nét văn hóa, lịch sử dân tộc, đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của cả người già lẫn người trẻ, là món đồ vừa chơi được, lại vừa… ăn được.
Nặn tò he là một nghề độc đáo, chỉ duy nhất có ở Xuân La, Phượng Dực, Phú Xuyên, Hà Nội. Người xưa có câu: “Thứ nhất bánh đa, thứ nhì bánh cuốn, thứ ba chim cò”. Xưa kia tò he gọi là chim cò, vì trong hội làng, chợ quê nổi tiếng của vùng trấn Sơn Nam Thượng các chàng trai của Xuân La đều đến và mang theo nghề nặn chim cò tới góp vui. Sau này, “chim cò” được gắn lên chiếc kèn làm bằng cây sậy, khi thổi tạo ra âm thanh tò te, người dân gọi chệch là tò he và lấy đó làm tên gọi thay cho “chim cò”. Những tò he – chim cò của họ làm cho hội hè chợ búa thêm sắc màu rực rỡ.
Đồng dao Bắc Bộ có bài: “Tò he cụ bán mấy đồng/ Con mua một cái cho chồng con chơi/ Chồng con đánh vỡ đánh rơi/ Con mua cái khác con chơi một mình”. Tò he đa dạng về hình dáng, thể loại, nhân vật, nên có thể đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của từng người ở mọi lứa tuổi.
Với lịch sử hơn 300 năm, cùng với thăng trầm của đất nước, tò he cũng có giai đoạn tưởng chừng bị mai một trước đồ chơi nước ngoài, đặc biệt là những “cơn bão” hàng Trung Quốc. Tuy nhiên, nhờ niềm đam mê với những khối bột, tinh thần gìn giữ và phát huy những thành quả lao động sáng tạo của cha ông, những giá trị văn hóa dân gian của dân tộc, người dân làng nghề Xuân La đã và đang gìn giữ, phát huy loại hình nghệ thuật đặc sắc này.
Đi khắp nơi trong làng, không khó để bắt gặp hình ảnh những cụ già 80, em nhỏ 5,6 tuổi đang thích thú chơi, nặn tò he. Hầu như trong làng nhà nào cũng có người biết nặn tò he bởi nét văn hóa độc đáo này đã ngấm vào đất, vào nước, ăn vào máu của người dân Xuân La.
Nguyên liệu chính để làm tò he là bột gạo có trộn bột nếp theo tỉ lệ 10 phần gạo, 1 – 2 phần nếp (tùy theo thời tiết ẩm hay nóng, hanh khô). Gạo trộn đều, ngâm nước rồi đem xay nhuyễn, luộc chín như luộc bánh trôi. Sau đó, người ta nắm bột lại thành từng vắt và nhuộm màu riêng từng vắt. Bốn màu cơ bản là vàng, đỏ, đen, xanh.
Theo cách làm truyền thống, người ta sử dụng màu có nguồn gốc từ thực vật và đun sôi với một ít bột: Màu vàng làm từ hoa hòe hoặc củ nghệ, màu đỏ từ quả gấc, màu đen thì dùng cây nhọ nồi, màu xanh lấy từ lá riềng hoặc lá trầu không. Các màu sắc trung gian khác đều được tạo từ bốn màu này. Từ những khối bột này, người thợ nặn ra các hình thù vô cùng phong phú: 12 con giáp, cỏ cây, hoa lá, các nhân vật truyện tranh, nhân vật lịch sử, dã sử, hay nhân vật Tàu như: Trư Bát Giới, Tôn Ngộ Không, Quan Vũ…. Nếu nặn những con vật nhỏ, trung bình 1kg bột làm được 30 con tò he, thời gian để nặn một con là từ 3-5 phút.
Trước kia, người dân làng Xuân La thường nặn sẵn tò he ở nhà rồi mang ra chợ, các con tò he không được gắn vào thanh tre như bây giờ mà được nặn và đặt lên những vòng tròn như chiếc đĩa. Sau này, khi “công nghệ” que tre ra đời người ta tạo hình tò he trực tiếp lên đó, và làm ngay tại chợ. Một thùng gỗ nhỏ hoặc thùng xốp với vài cục bột màu, một chiếc lược con, nắm que tre nhỏ và chút sáp ong hay bánh xà bông, những “nghệ nhân làng” tỏa đi khắp nơi mang niềm vui, sắc màu đến cho cuộc sống. Có thể dễ dàng bắt gặp họ ở những khu vui chơi giải trí công cộng, những phố phường, chợ quê, nhất là trong những hội hè đình đám. Nơi luôn bị vây kín bởi rất nhiều trẻ con chính là dấu hiệu để nhận biết sự xuất hiện của các “chàng cò”.
Là món đồ chơi thuần Việt: Nguyên liệu đơn giản, gần gũi với cuộc sống, qua bàn tay tài hoa của người thợ nông dân tạo nên những hình ảnh thân thuộc, đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Có lẽ tính lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và giáo dục trong mỗi con tò he chính là yếu tố khiến cho tò he được khôi phục lại, duy trì và phát triển như ngày hôm nay.
![]() |
Tò he nhận bằng làng nghề |
Làng tò he duy nhất tại Việt Nam
Ý thức được những giá trị văn hóa tinh thần của những con tò he, những người con Xuân La đã tìm mọi cách để khôi phục lại nghề cổ của làng. Với những nỗ lực đáng kể, 20 năm trở lại đây, tò he Xuân La được phục dựng và từng bước tìm được chỗ đứng trong đồ chơi Việt.
Tháng 5 năm 2009, làng thành lập Câu Lạc Bộ (CLB) Làng nghề truyền thống nặn tò he duy nhất Việt Nam với 130 thành viên (của 50-60 hộ), trong đó có 30 hội viên là phụ nữ. CLB thu hút sự quan tâm của mọi lứa tuổi trong làng, người trẻ nhất mới chỉ mười sáu tuổi, người lớn tuổi nhất cũng đã hơn tám mươi. CLB tò he và dân làng đã phong tặng danh hiệu nghệ nhân cho ba hội viên có tay nghề xuất sắc: Đặng Văn Hạ (85 tuổi), Nguyễn Văn Ấu (68 tuổi), Nguyễn Văn Thành (37 tuổi).
CLB đã tham gia nhiều chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề, tổ chức cuộc thi nặn tò he để quảng bá, giới thiệu sản phẩm…. Đặc biệt, CLB cũng tham gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội với ba sản phẩm kỷ lục: Con Rồng thời Lý nặng 300kg, dài 3m, Cụ Rùa nặng 250 kg, dài 1,3m và mâm ngũ quả nặng 25kg.
“Tò he thể hiện được nét đẹp văn hóa làng, là sản phẩm sáng tạo của cha ông, là đồ chơi dân gian, được làm từ chất liệu gần gũi, đáp ứng nhu cầu trực tiếp của người chơi, đặc biệt chỉ có ở Xuân La”, anh Đặng Văn
Tiên, thành viên CLB nặn tò he tự hào.
Xuân La đã được Trung tâm sách Kỷ lục GUINESS Việt Nam trao chứng nhận “Làng nghề Tò he duy nhất ở Việt Nam”.
Để phát triển trên diện rộng, CLB thường xuyên phối hợp biểu diễn tại các sự kiện văn hóa quốc tế, tại các lễ hội, đón tiếp các đoàn khách thăm quan du lịch làng nghề, liên kết giảng dạy môn nghệ thuật nặn tò he tại trường học... Các nghệ nhân trong làng cũng được mời tham dự, biểu diễn tại các chương trình giao lưu văn hóa với các nước Mỹ, Nhật, Thái Lan…
Là loại hình thủ công đơn giản, tò he không bị ảnh hưởng nhiều bởi mặt bằng, vốn bỏ ra ít, tuy nhiên nó cũng vấp phải một số khó khăn về đầu ra. Điều trăn trở nhất đối với người làm nghề đó là: “tò he là loại hình thủ công truyền thống sản xuất quy mô nhỏ, chủ yếu là làm theo hình thức cá nhân, bày bán linh hoạt nên nhiều người coi nó như những loại hàng rong bình thường khác, thậm chí còn cấm không được bày bán ở các khu vui chơi giải trí. Chúng tôi rất mong các tổ chức văn hóa có những ưu tiên và chính sách cụ thể để tò he được đánh giá đúng là một loại hình nghệ thuật, không bị coi là hàng rong”, nghệ nhân Nguyễn Văn Thành, chủ nhiệm CLB làng nghề chia sẻ.
Xem thêm:
tò he việt
to he viet
to he

Nhãn:
TIN TỨC
Nguyên Liệu làm tò he
Nguyên Liệu làm tò he
Ðể nặn ra tò he chỉ cần những nguyên liệu rất đơn giản, gần gũi với cuộc sống nông dân. Ðó là những sản phẩm nông nghiệp do chính bàn tay họ làm ra: bột gạo, phẩm màu, que tre, qua bàn tay tài hoa của nghệ nhân, phút chốc đã tạo nên hình ảnh của những vị anh hùng dân tộc, những nhân vật cổ tích, con cá chép đang cong mình vượt vũ môn, chú trâu đang thong dong gặm cỏ…
![]() |
Nguyên liệu nặn tò he |
Không giống như các mặt hàng khác là được làm sẵn từ nhà mang đi. Người làm tò he chỉ phải chuẩn bị vật liệu, đồ nghề, sau đó đến địa điểm bán hàng luộc bột và trộn màu. Giai đoạn làm bột là giai đoạn công phu nhất. Bột được làm từ gạo nếp trộn với gạo tẻ nghiền nhỏ theo tỷ lệ 1 kg gạo tẻ với 1 lạng gạo nếp. Nhào bột với nước cho đến khi bột nhuyễn, quyện dính vào nhau, vê thành cục. Cho cục bột vào nồi nước đang sôi để một giờ đồng hồ đến khi bột nổi, chìm rồi lại nổi thì vớt ra, để nguội bột, và nhuộm màu cho bột.
Màu sắc dùng để nhuộm bột cũng lấy từ cây nhà lá vườn: mầu xanh từ lá cây, màu đỏ của gấc, mầu vàng từ nghệ, mầu đen từ tro bếp, màu tím từ một loại lá của người dân tộc thiểu số... Ðiều đáng nói ở đây là mầu rất bền, không bị loang ra. Màu nào vẫn giữ nguyên màu đó khi ta đem trộn lẫn chúng vào nhau. Ngày nay, việc tạo màu sắc cho tò he cũng không mất nhiều thời gian như trước. Nếu như trước đây, các màu được lấy từ thiên nhiên (màu đỏ lấy từ gấc, màu vàng từ nghệ, màu xanh từ lá cây,….) và cách chắt lọc rất cầu kì, thì ngày nay tất cả được thay thế bằng phẩm màu. Chỉ cần một động tác và sự khéo tay của nghệ nhân là đã có ngay những màu thật đẹp. Một sản phẩm sẽ được làm ngay sau vài phút trước yêu cầu và sự chứng kiến của người mua. Với khách nước ngoài hay với những người Việt ít biết đến tò he, việc đứng quan sát các nghệ nhân trổ tài qủa thật là một điều thú vị.

Nhãn:
NGUYÊN LIỆU,
QUY TRÌNH
Các bước tạo ra tò he
Các bước tạo ra tò he
Bước 1: Trộn bột
Giai đoạn làm bột là giai đoạn công phu nhất. Bột được làm từ gạo nếp trộn với gạo tẻ nghiền nhỏ theo tỷ lệ 1 kg gạo tẻ với 1 lạng gạo nếp.
![]() |
Trộn bột |
Bước 2: Nhào bột
Nhào bột với nước cho đến khi bột nhuyễn, quyện dính vào nhau, vê thành cục.
![]() |
Nhào bột |
Bước 3: Luộc bột
Cho cục bột vào nồi nước đang sôi để một giờ đồng hồ đến khi bột nổi, chìm rồi lại nổi thì vớt ra, để nguội bột, và nhuộm màu cho bột.
![]() |
Luộc bột |
Bước 4: Nhuộm bột
Màu sắc dùng để nhuộm bột cũng lấy từ cây nhà lá vườn: mầu xanh từ lá cây, màu đỏ của gấc, mầu vàng từ nghệ, mầu đen từ tro bếp, màu tím từ một loại lá của người dân tộc thiểu số… Ðiều đáng nói ở đây là mầu rất bền, không bị loang ra. Màu nào vẫn giữ nguyên màu đó khi ta đem trộn lẫn chúng vào nhau.
có 7 mầu cơ bản là xanh lá cây, xanh nước biển, đỏ, tím, vàng, trắng đen, nếu muốn có thêm màu mới sinh động hơn thì nghệ nhân phải trộn các màu đó với nhau.
(Hiện nay có thể thay màu tự nhiên bằng phẩm màu công nghiệp)
![]() |
Nhuộm bột |
Ngoài ra, để có một con tò he hoàn chỉnh, người nghệ nhân còn cần vòng nứa, một cái lược nhỏ ( đầu này có răng lược, đầu kia vót nhọn), một con dao, một miếng sáp ong.
![]() |
Dụng cụ tò he |
Bước 6: Nặn bột
Với đôi bàn tay tài hoa và trí tuệ
![]() |
Tò he |

Nhãn:
QUY TRÌNH
Vẻ đẹp bình dị ở làng quê Xuân La - Nét văn hóa lâu đời.
Vẻ đẹp bình dị ở làng quê Xuân La - Nét văn hóa lâu đời.
Là một làng quê bình dị ở phía Nam Thủ đô Hà Nội, làng Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, từ lâu đã nổi tiếng với một nghề độc nhất vô nhị ở nước ta - nghề nặn tò he.
Vượt lên trên giới hạn của một nghề mưu sinh, nặn tò he ở Xuân La đã trở thành nét đẹp văn hóa dân gian, góp phần giáo dục cho nhiều thế hệ tuổi thơ ở khắp mọi miền đất nước về lịch sử, bản sắc văn hóa và cội nguồn dân tộc Việt.
Cũng tại ngôi làng này, mới đây, Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam đã chọn làm địa điểm để tổ chức Hội thảo khoa học "Thực trạng và giải pháp phát huy giá trị nghề sản xuất đồ chơi truyền thống hướng tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long".
Về Xuân La, chúng tôi đã được chứng kiến những cụ già tuổi đã ngoài 80, thanh niên và cả những em bé còn chưa đến tuổi vào lớp 1 say sưa nặn những bông hoa hồng đỏ thắm, những chú mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo, những cô thôn nữ áo mớ bảy mớ ba rực rỡ hay hình tượng anh hùng Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc, chàng Thạch Sanh dũng mãnh đánh thắng trăn tinh.
![]() |
Trẻ con tíu tít xem nặn tò he |
Theo các cụ cao niên ở Xuân La, nghề nặn tò he để làm đồ chơi cho trẻ thơ đã có ở Xuân La từ hơn 300 năm nay. Ban đầu, những lúc nông nhàn, người dân trong làng thường lấy gạo nếp hoặc gạo tẻ đem giã mịn, hấp chín rồi lấy nước rau ngót giã để tạo nên màu xanh, quả gấc tạo mùa đỏ, nước củ nghệ tạo màu vàng, củ nghệ đen tạo màu tím... rồi đem nặn thành hình những con giống ngộ nghĩnh, xinh xắn.
"Hữu xạ tự nhiên hương", lúc đầu chỉ người dân và trẻ thơ ở trong vùng biết và thích thú với những đồ chơi được nặn bằng bột. Dần dần trải qua năm tháng, người Xuân La đã đem nghề đi muôn nơi, những đồ chơi xinh xắn được nặn từ bột gạo có tên gọi chung là tò he đã trở thành thứ đồ chơi được yêu thích của bao thế hệ trẻ thơ từ Bắc, vào Nam.
Từ những nguyên liệu hết sức đơn sơ, giản dị là những sản phẩm nông nghiệp như hạt gạo, lá rau, qua bàn tay những người nông dân tài hoa, phút chốc đã tạo nên hình ảnh những vị anh hùng dân tộc, những nhân vật cổ tích, những sản phẩm quen thuộc của nhà nông như bông lúa vàng óng ngày mùa, con cá chép đang cong mình vượt vũ môn, chú trâu thong dong gặm cỏ... góp phần nuôi dưỡng tâm hồn trong trẻo, thơ ngây của trẻ thơ, thể hiện phần nào tâm hồn và cốt cách người dân đất Việt.
Chính nhờ những nét độc đáo và tài tình trong cách tạo nên đồ chơi cho trẻ thơ mà người thợ Xuân La cùng những sản phẩm tò he đã không ít lần có mặt trong các chương trình giới thiệu, trao đổi văn hóa tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ... và đã tạo được ấn tượng đẹp, sức hấp dẫn rất riêng với bạn bè quốc tế.
Trong ngôi nhà nhỏ chứa đầy các khay, hộp xốp chứa bột nếp, bột tẻ đủ màu sắc, anh Đặng Văn Hổ - người liên tục có mặt tại Bảo tàng Dân tộc học để hướng dẫn các em nhỏ tự tay nặn tò he tự hào cho biết nghề nặn tò he là nghề cha truyền con nối của gia đình anh từ hàng chục năm nay. Bản thân anh, đã nặn thành thạo những bông hoa, con rồng, con trâu, bông lúa từ năm lên 4 tuổi.
![]() |
Ngày hội làng nghề tò he |
Không chỉ gia đình anh, đã là người Xuân La, dường như ai cũng được trời phú cho đôi tay khéo léo và trí tưởng tượng cực kỳ phong phú để chỉ cần đưa ra yêu cầu và trong vòng 3-5 phút, một em nhỏ ở Xuân La cũng có thể hoàn thiện ngay sản phẩm. Quả không sai, vừa trò chuyện với chúng tôi, chỉ một loáng là hai cháu Đặng Văn Hữu (4 tuổi) và Đặng Thị Nhi (8 tuổi) đã nặn xong một bông hoa và một chiếc đèn ông sao.
Ông Nguyễn Công Doanh, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Phượng Dực cho hay nặn tò he không chỉ là nghề tạo nguồn thu nhập đáng kể cho người dân lúc nông nhàn ở Xuân La mà còn là nghề tạo nên nét đẹp văn hóa cổ truyền của một vùng quê phía Nam Thủ đô.
Một số nghệ nhân cao tuổi như cụ Đặng Văn Tố, Nguyễn Văn Thuận đã qua đời song lớp thợ trẻ như anh Đặng Văn Hổ, Đặng Văn Thảo đang tiếp tục nối gót. Họ liên tục được mời đến Bảo tàng Dân tộc học, các trường mẫu giáo, tiểu học để hướng dẫn thiếu niên, nhi đồng nặn tò he, giúp các cháu thêm hiểu, thêm yêu bản sắc văn hóa và lịch sử dân tộc qua những đồ chơi giàu tính nhân văn.
Thiết thực hướng tới Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Ủy ban Nhân dân xã Phượng Dực coi tò he Xuân La là một điểm nhấn để xã bắt tay vào xây dựng quy hoạch du lịch và dịch vụ làng nghề trong thời gian gần nhất.
Hiện nay, một số cơ sở hạ tầng quan trọng như giao thông, chợ đang được thành phố đầu tư nâng cấp. Đây sẽ là cơ hội để các giá trị văn hóa truyền thống qua bàn tay người thợ tài hoa của Xuân La ngày càng được khẳng định và tôn vinh.
Trong tương lai không xa, Xuân La sẽ trở thành diểm du lịch làng nghề nằm trong chuỗi các điểm du lịch làng nghề nổi tiếng ở phía Nam Hà Nội như thêu Quất Động, đan cỏ tế Phú Túc, giày da Phú Yên./.

Nhãn:
TIN TỨC
Tò he quê tôi
Chân quê tò he Xuân La - Tò he quê tôi
Bên lề hội thảo Thực trạng và giải pháp phát huy giá trị nghề sản xuất đồ chơi truyền thống của Hà Nội hướng tới 1.000 năm Thăng Long, làng Xuân La vui như mở hội. Ngày mùa được gác lại, các nghệ nhân thi nhau trình diễn nghệ thuật nặn tò he để giới thiệu với du khách, thêm một lần khẳng định với các nhà nghiên cứu, nhà quản lý hương vị quê nhà.
Ông Nguyễn Vi Khải – phó chủ tịch CLB Nghiên cứu phát triển, nguyên viện trưởng Viện CNXH khoa học – rất tâm đắc với tò he và gọi đây là một đặc phẩm có giá trị nhân văn được nhấn mạnh cao hơn rất nhiều so với giá trị kinh tế. So với các làng nghề khác, số làng nghề tò he chỉ đếm trên đầu ngón tay với số lượng không quá hai con số. Trên mạng Internet có 268.000 thông tin liên quan tới cụm từ làng nghề tò he nhưng hầu hết chỉ nói đến làng nghề tò he Xuân La, Phượng Dực, Phú Xuyên.
Tên tò he hiện giờ vẫn chưa xác định rõ ràng xuất xứ cũng như tên gọi, tuy nhiên trước đây người ta thường gọi Xuân La là “làng chim cò” – những sản phẩm sáng tạo chủ yếu thời điểm đó. Lịch sử làng nghề khoảng 300 năm tuổi. Nhiều tài liệu khẳng định tính văn hóa dân gian, bản sắc dân tộc, nghệ thuật độcđáo của làng nghề tò he: “ngôn ngữ khối trong tò he giàu tính biểu cảm. Tính nhịp điệu mang nét gợi nhớ, nó giản dị như ca dao, là tích tụ của nhân dân qua nhiều đời”.
Trẻ con rất thích thú với tò he
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đã có lúc tưởng chừng làng nghề đứng trước nguy cơ biến mất như những năm 1980. Thời hoàng kim, nặn tò he là nghề mang lại thu nhập chính cho cả làng. Tuy nhiên, tới nay nghề này chỉ cònđược coi là nghề tay trái vào những lúc nông nhàn tháng ba ngày tám. Số lượng nghệ nhân giảm còn 1/4. Để giữ nghề, các nghệ nhân hiện thời đã có nhiều cải biên về mẫu mã nhưng những mẫu mã truyền thống vẫn được giữ nguyên.
GS – TS Tô Ngọc Thanh, chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, nhấn mạnh tại hội thảo Thực trạng và giải pháp phát huy giá trị nghề sản xuất đồchơi truyền thống của Hà Nội hướng tới 1.000 năm Thăng Long vừa được tổ chức tại Xuân La ngày 27-5: “Chúng ta đi vào cuộc sống hiện đại, cần thiết và rất nên tôn trọng những ý tưởng sáng tạo, cách tân của nghệ nhân. Nhưng điều cần thiết hơn là phải giữ được cái gốc. Không còn những cái gốc, như không còn thấy Quan Công, Lưu Bị, ông tướng, con rồng, con gà trống… thì đâu còn là tò he nữa”. Nhiều nghệ nhân già đã xa nghề hàng chục năm nay vì lý do kinh tếcũng ra ngồi với bà con làm lại nghề, bàn tay vẫn còn rất khéo léo. Thôn xóm sống dậy một thời trong ký ức.
Cụ Nguyễn Thị Hốt, 85 tuổi, cười móm mém nói: “Lâu lắm rồi làng nghề mới được đông vui như thế. Nghĩ lại mới thấy phải bỏ nghệ tổ, thật là xót xa”. Còn với bà Đặng Thị Với, 63 tuổi, niềm tự hào về một đặc phẩm độc nhất vô nhị của làng quê mình cứ tự nhiên bộc phát theo từng vần thơ do bà tự làm:
“Ai qua Phượng Vũ
Về tới Xuân La
Đồng Quan cùng xã
Văn hóa đổi thay
Chim cò đã có bao đời
Làm cho già trẻ mọi người thú vui…
Tò he là nghề du chơi
Ngày xuân lễ hội cho đời mãi xuân…”.

Nhãn:
TIN TỨC
Tò he -Tuổi thơ tôi
Tò he -Tuổi thơ tôi
Trong mỗi chúng ta ai cũng có một quê hương để yêu thương, để nhớ nhung, hai chữ quê hương mới chỉ thoáng nghe thôi đã thấy thật thiêng liêng bình dị nhưng ấm áp, ấm áp bởi vì nó đầy ắp tình người, đầy ắp những kỷ niệm tuổi thơ sâu sắc, mỗi vùng quê lại có những nét văn hóa riêng và đặc trưng mà không miền quê nào giống miền quê nào, nó có thể là di tích lịch sử, ngôn ngữ, phong tục, tập quán sống, hay một món ăn,hoặc một sản phẩm làm thủ công do những người thợ khéo tay tạo ra từ những nguyên liệu ,vật liệu, sẵn có trong thiên nhiên..v.v.giá trị của những sản phẩm này không thể đo bằng vật chất, mà là sự kết tinh từ những tinh hoa của biết bao thế hệ cha ông để lại với sự miệt mài lao động sáng tạo của các nghệ nhân tàihoa, tâm huyết, đó chính là văn hóa,văn hóa của chúng ta cũng giống như nước đối với cá, chúng ta sống trong nó hít thở nó, chính vì vậy văn hóa cần phải được bảo tồn gìn giữ và phát huy.
Riêng tuổi thơ của tôi là những ký ức về một làng quê êm đềm với gốc lúa, bờ tre,cây đa, bến nước ,sân đình,con kênh…thật bình dị. Đó là một vùng quê phía Bắc cách trung tâm Hà Nội khoảng chừng hơn 20km về phía nam , nơi đây tồn tại và được lưu truyền rất nhiều những ngành nghề thủ công mỹ nghệ như:mây tređan, làm nón…Đặc biệt ấn tượng và gắn liền với tuổi thơ của tôi là những chú tò he ngộ ngĩnh đáng yêu chúng đi vào tâm trí tôi khi nào chẳng biết,chỉ nhớ ngày nhỏ tôi và đám bạn thường tụ tập chơi tò he với nhau khi thì chơi 12 con giáp,khi thì bốn thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, hay Thánh Giong đang tung bốn vó ngựa tiến thẳng về trời….nhớ những lần mẹ đi chợ tôi lẽo đẽo bám theo mẹ đòi mua tò he về chơi ngày đó một con tò he giá chỉ 2000đ tới 5000đ một con!!!cầm những chú tò he trên tay tôi vui mừng khôn xiết chạy đi tìm đám bạn những giây phút đó thật là hạnh phúc,tới bây giờ khi đã trưởng thành rồi nhưng nghĩ lại vẫn thấy hạnh phúc lânglâng thật khó tả. Cho tới nay tò he quê tôi vẫn chưa được xác định rõ ràng về tên gọi cũng như nguồn gốc xuất xứ.Chỉ biết rằng, từ nguyên liệu đơn sơ,giản dị của nông nghiệp là hạt gạo ,lá rau,phẩm màu,qua sự biến tấu của người dân quê tôi,phút chốc đã tạo thành các nhân vật cổ tích, hoạt hình….đẹp và ngọt ngào như những khúc đồng giao bình dị góp phần nuôi dưỡng tâm hồn trong trẻo,thơ ngây của tôi. Nhờ nét độc đáo có một không hai ấy mà người dân quê tôi cùng những sản phẩm tò he không ít lần có mặt tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… để giới thiệu những nét đẹp của văn hóa Việt Nam, mang lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè quốc tế
![]() |
Tò he thầy trò đường tăng |
Người quê tôi hầu như ai cũng biết nặn tò he, nhưng không phải tất cả đều theo nghề này. Trung bình có khoảng 200 người đi nặn tò he "lưu động" và họ thường dừng lại ở các điểm vui chơi, trường học, công viên, những nơi có nhiều khách du lịch để quảng bá, giới thiệu và bày bán các sản phẩm nghệ thuật của làng. Với những người ít biết đến tò he thì việc đứng quan sát các nghệ nhân trổ tài cũng là một điều thú vị. Người làm tò he bây giờ cũng năng động hơn nhiều, trước đây sản phẩm chủ yếu là cây, hoa quả, con giống, hình Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới...thì bây giờ tò he đã xuất hiện rô bốt trái cây, siêu nhân, thủy thủ mặt trăng... Thỏa mãn được sở thích của mọi lứa tuổi, nên tò he ngày càng khẳng định được sức hút. Nhiều khách sạn lớn ở Hà Nội, nhiều trường mầm non đã mời các nghệ nhân về
![]() |
Dạy nặn tò he trong trường mầm non |
trình diễn và dạy nặn tò he. Nhìn những gương mặt hớn hở, thích thú khi cầm trên tay những con vật, bông hoa, thậm chí là chân dung con người nhỏ bé, xinh xinh,ngộ nghĩnh bằng bột, đủ màu sắc ở khắp các ngõ ngách của Thủ đô và nhiều miềnquê khác nữa.chỉ cần bắt gặp ở đâu đó một lần thôi chúng ta sẽ nhớ và ấn tượngngay với những chú tò he,ấn tượng bởi màu sắc trong trẻo tươi thắm cũng như sự ngộ nghĩnh đáng yêu của con tò he,đặc biệt là những người thợ khéo tay, chỉ với một thao tác vê vê tay rất đơn giản trong giây lát thôi đã tạo ra những con tò he tinh tế và độc đáo, khiến cho người coi phải ngỡ ngàng và không hết những lời khenkhợi thán phục đủ để thấy tò he có sức sống mãnh liệt trước sự "tấn công" dữ dội của thị trường đồ chơi nhập ngoại. Do đó việc giữ nghề tò he không chỉ vì mục đích kinh tế mà sâu xa hơn đó là gìn giữ nét văn hóa dân gian đặc trưng của vùng Đồng bằng Bắc bộ.

Nhãn:
TIN TỨC
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)